Việt Nam, phong trào
xây dựng nhà nuôi chim yến đang bùng phát, mỗi ngày ở các vùng ven
biển từ Quảng Nam – Đà Nẵng đến Hà Tiên – Rạch Giá Và các hải đảo
trên biển Đônng đều có một vài hay chục nhà yến đang xây dựng. Từ
khoảng 30 nhà yến có truwóc năm 2007 đến nay đã có gần 500 nhà khai
thác lấy tổ chim yến, và với sự bùng phát này đến năm 2030 ở Việt
Nam có thể có khoảng 5.000 nhà yến khai thác lấy tổ. Có nhiều ý
kiến cho rằng sẽ không có điểm dừng cho số lượng nhà yến trước lợi
nhuận quá cao của nghề xây nhà cho chim yến trú ở khai thác tổ.
![]() |
Khu vực phát triển nghề nuôi yến tại Việt Nam |
Nghề xây nhà nuôi chim ở Việt Nam đi sau
Indonesia gần 40 năm, đến nay ở nước này đã hơn 15.000 nhà yến, sản
lượng tổ thu trong nhà trên 180 tấn gấp 4 lần sản lượng tổ thiên
nhiên. Ở Malaysia, nam 1997 chỉ có 150 nhà, nay cũng có hơn 5.000 nhà.
Thái Lan dù vào cuộc sau cũng gần 4.000 nhà.
Các nhà kinh doanh tổ yến dự
đoán nhu cầu tiêu thụ tổ yến trên thế giới còn tăng, và tăng mạnh
nhất là ở thị trường Trung Quốc và các nước Đông Bắc Á.
Giá bán tổ yến sơ chế tại Hong Kong là 6.500 – 8.500 USD/kg. Doanh thu bán lẻ
tổ yến trên thế giới trong năm 2006 là 3,8 tỷ USD, năm 2009 đã vượt quá
4,15 tỉ USD với mức tăng trung bình mỗi năm là 15%. Indonesia cung cấp
hơn 60% thị phần còn lại là Thái Lan 20%, Malaysia 15%, Việt Nam Và
Myanmar 5%.
Ở Việt Nam cũng như ở các nước
Đông Nam Á xây nhà cho chim yến trú ở để lấy tổ có nhiều nhà thành
công thu được bình quân 5 – 10 kg tổ yến/tháng, cá biệt có nhà thu
được 20-25 kg/tháng nhưng cũng có nhiều nhà yến 1-2 kg/tháng hoặc vài
trăm gram. Dư luận xã hội đã có nhận định “đầu tư xây nhà yến là năm
ăn năm thua” nhưng mỗi ngày mỗi tháng lúc nào cũng có thêm một vài
nhà yến mới xây. Các nhà đầu tư có lập luận là xây nhà đẻ ra tiền!
Tại sao không xây? Họ nói chỉ cần nhận từ loài chim hoang dã này 25-40
kg/năm là đủ rồi, lộc này sẽ tăng theo năm tháng. Được nhận đến cả
trăm năm.
Từ thế kỷ 19, trên thế giới
có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về loài chim yến cho tổ ăn được
nhưng chỉ dừng lại ở phân loại, sinh lý sinh thái của loài chim này.
Ở Indonesia trong vài năm gần đây, có vài nhà khoa học nghiên cứu kỹ
thuật xây nhà khai thác lấy tổ yến.
Ở Việt Nam, năm 1973-1974, nha Ngư
Nghiệp Sài Gòn đã cho thực hiện những thước phim ghi lại nghề khai
thác yến sào tại các đảoYến ở Nha Trang và sưu tầm, ghi chép một
số đặc điểm sinh lý sinh thái của chim yến cho tổ ăn được. Từ năm
1980 đến nay, một số nhà khoa học nghiên cứu sâu về loài chim yến cho
tổ trắng, công ty yến sào Tầm Cao việt đã nghiên cứu kỹ thuật ấp
trứng và mớm mồi nuôi chim yến non để tăng đàn yến. Kết quả chưa khả
thi nên vấn đề dẫn dụ chim yến ngoài thiên nhiên là chính.
Tổng
hợp các tài liệu nghiên cứu về loài chim yến của các nhà khoa
học trên thế giới, trong nước và của tác giả trên thế giới, lời nhận
định về tính “năm ăn năm thua khi xây nhà yến” là có cơ sở và hoàn
toàn không phải do tính may rủi mà là do những đặc điểm khá lý thú
của loài chim yến bé nhỏ. Điều này thể hiện rất rõ khi xây dựng ở
một khu vực cùng cách thức và bố trí kỹ thuật như nhau nhưng kết
quả nhận tổ yến khác nhau, nhà nhiều nhà ít.
Để làm rõ tính chất may và rủi
này, những đặc điểm của loài chim yến hoang dã, kỹ thuật xây dựng và
những tấm ván được đóng lên trần…chúng tôi thấy cần được làm rõ hơn
nên trình bày tập sách “Chim Yến-Đầu
Tư và Kỹ thuật xây dựng nhà nuôi chim yến để khai thác tổ yến Việt Nam”. Mong rằng
sẽ góp thêm một số kiến thức và kinh nghiệm thực tế vào nghề xây
nhà yến để khai thác lấy tổ yến tại Việt Nam. Hi vọng không xa Việt Nam
sẽ có tổ chức hay Hiệp hội nghề nuôi chim yến.
NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI CỦA LOÀI CHIM YẾN CHO
TỔ ĂN ĐƯỢC
1.NHỮNG LOÀI CHIM YẾN LÀM TỔ ĂN ĐƯỢC
Nhà Điểu học Sibley và Ahlquist
cho rằng trên thế giới có khoảng 96-100 loài chim yến và xác định có
16 loài chim yến nhỏ giống Collocalia nhưng chỉ có 3 loài chim yến cho
tổ ăn được (Edible-nest):
-
Chim yến
tổ trắng Collocalia Fuciphaga (Thunberg, 1812).
-
Chim yến
Ấn Độ Collocalia unicolor (Jerdon, 1840).
-
Chim yến
tổ đen Collocalia maxima (Hume, 1878).
1.1.Chim yến tổ trắng
Chim yến tổ trắng C.fuciphaga chỉ
có vùng Đông Nam Á, không có ở vùng nào khác trên thế giới.
Chim làm tổ hoàn toàn bằng
nước bọt của chúng nên chất lượng và giá trị thương mại cao hơn tổ
của các loài chim yến khác.
Chim có thân dài 12-14 cm nhỏ
hơn các loài yến khác, ở quần thể Indonesia lông chim ở hông thường
đồng màu với lông ở lưng, ở quần thể Việt Nam lông ngực xám, lông
lưng có mảng sáng hơn, lưng không có khoảng trắng, đuôi bầu, sải cánh
dài 12-15 cm, khi bay đập cánh toàn bộ và có tiếng kêu đặc trưng phát
sóng siêu âm.
Trọng lượng cơ thể chim ở các
tỉnh phía Nam Khánh Hòa nặng 13-17 gr/con, ở các tỉnh phía Bắc Khánh
Hòa nặng 15-20 gr/con, ở Malaysia chỉ nặng 12 gr/con. Tổ nặng 8-12 gr.
Chim yến tổ trắng ở Việt Nam sinh
sản 2 lứa/năm, ở Indonesia ,
Malaysia
sinh sản 2/4 lứa/năm.
Chim yến có thể sống thành bầy
đàn hoặc sống một mình. Trong hang yến hay nhà yến có thể có nhiều
đàn sống chung với nhau.
![]() |
Chim yến hàng |
Tại nơi trú ở, chim thích chỗ tối
độ sáng 0,2 Lux, độ ẩm cao 80-95% phù hợp là 85%, nnhiệt độ 28oC và thích chơi đùa với nước.
Tên
phân loài
|
Nơi sống
|
C.fuciphaga
|
Java, Sumatra
|
Fuciphaga
|
|
C.fuciphaga micans
|
Timor, Lesser Sundas, Sumba và Sawu của
Indonesia
|
C.fuciphaga
|
Floré và Lesser Sundas của Indonesia
|
Dommemani
|
|
C.fuciphaga perplexa
|
Đông Bắc Borneo
|
C.fuciphaga vestica
|
Borneo, Sumatra
|
C.fuciphaga
|
Malaysaia, Singapore
|
Amechana
|
|
C.fuciphaga
|
Nicobar, Andaman Tây Thái Lan
|
inexpectata
|
|
C.fuciphaga
|
Đông Thái Lan , Việt Nam, Đông Nam Philippines,
Camphuchia và Đông Nam đảo Hải Nam Trung Quốc.
|
germani
|
Chim yến sinh sống ở các vùng chung
quanh hải đảo của các vùng biển các quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam,
Malaysia, Indonesia, Borneo, Tây Nam Philippines, Campuchia và được chia
thành 8 phân loại, phân bố sống ở các nước như sau:
Việc phân chia 8 phân loài này của loài chim yến tổ trắng, các
nhà điểu học dựa trên từng vùng địa lý nơi chim sinh sống như phân
loài C.fuciphaga germaani là bắt được ở Việt Nam, Thái Lan nhưng bắt
được ở Malaysia là C.fuciphaga amechana.
Ở Việt Nam, chim yến tổ trắng
làm tổ ở các đảo trong vịnh Hạ Long, Quảng Bình, Đà nẵng, Quảng
Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Phan Rang, Côn Đảo và Rạch Giá.
1.2.Chim yến tổ đen
Chim yến tổ đen C.maxima cho tổ có
khoảng 90% là nước bọt và 10% là lông cơ thể của chúng, giá trị
thấp hơn tổ yến trắng 30-40%, phải dùng kỹ thuật ngâm tách sợi lông
chim ra và dùng kỹ thuật sấy lạnh làm khô các sợi nước bọt lại để
đóng thành tổ yến.
Chim có lông ở hông sáng hơn lông ở
lưng và có một hàng lông ở mặt trong và ngoài chân,trọng lượng
17-22gr/con.Chim phân bố ở khu vực hẹp, sinh sống ở Malaysia, Indonesia,
Thái Lan và một ít ở Khánh Hòa Việt Nam.
1.3 Chim yến Ấn Độ
Chim yến Ấn Độ C.unicolor cho tổ
yến bằng nước bọt gắn với các sợi cỏ,rêu và lông của chúng, tổ có
khoảng 40-50% là nước bọt còn lại là sợi cỏ,rêu và lông, giá trị
thấp hơn yến tổ trắng khỏang 70-80%,phải dùng kỹ thuật ngăm tách tạp
chất rồi dùng kỹ thuật sấy lạnh làm khô các sợi nước bọt lại để thành
tổ yến.
Chim có lông ở hông đồng màu với
lông ở lưng, đuôi chẻ nông, trọng lượng nhỏ 11 gr/con,chỉ có ở Ấn Độ
và Sirlanca.
Các loài chim yến có đặc điểm là
tự điều hòa thân nhiệt thích nghi với môi trường. Sáng sớm trước khi
rời khỏi hang hay nhà trú,chim khỏi dộng để cho thân nhiệt tăng rồi
mới bay khỏi hang kiếm mồi. Chiều về trước khi bay vào hang hay nhà
trú, chim lượn vài vòng ở sân để tự giảm thân nhiệt.
2.Định Danh Chim Yến
Vấn đề phân loại và đặt tên cho loài chim
yến nhỏ làm tổ ăn được này vẫn chưa được các nhà khoa học trên thế
giới nhất trí, có nhóm định danh là Collocalia và có nhóm định là
giống Aerodramus.
Tại hội nghị tháng 11/1996 về bảo
vệ chim yến ở Surabaya Indonesia, CITES đã đề nghị là không bắt buộc
dùng tên giống Collocalia hay Aerodramus, dùng tên giống nào cũng được.
Các nhà Điểu học Việt Nam sử
dung tên giống là Collocalia gọi là loài chim yến nhỏ quý giá này.
Ở Việt Nam, loài chim yến nhỏ
cho tổ trắng này vẫn chưa có tên gọi nên Nguyễn Quang Phách (1990) đề
nghị đặt tên là chim yến hàng vì cho rằng đây là loài chim yến cho
tổ yến có giá trị hàng hóa.
Các nhà Điêu học xác định chim yến thuộc
họ yến Apodidae là họ chim có bề ngoài rất giống với các loài én
nhạn có họ Hirundinidae nhưng hoàn toàn không có quan hệ họ hàng gần
với những loài chim én nhạn này.
Sự tương tự giữa chim yến và én
nhạn là do tiến hóa hội tụ, phản ảnh kiểu sinh sống tương tự dựa
trên việc bắt các côn trùng làm thức ăn trong khi đang bay.
Các loài chim yến tạo
thành một phần của bộ yến
Apodiformes cùng với các họ như họ chim ruồi và họ chim yến mào.
Tên gọi khoa học của họ này
là nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại arovs, apous nghĩa là “không có
chân” do chim yến có chân rất ngắn và không bao giờ đậu dược trên mặt
đất mà chỉ bám vào các bề mặt thẳng đứng.
Chim yến là loài chim bay trên không
nhiều nhất, trong đó có một số loài chim yến ngủ và giao phối khi
bay.
Các loài chim yến lớn như chim yến
đuôi nhọn họng trắng (Hirundapus caudacutus) là một trong những loài bay
nhanh nhất trong giới động vật.
Một nhóm chim yến hang (Collocalini) đã
phát triển hệ thống định vị bằng tiếng vang dội để dò đường bay
trong các hang động tối tăm nơi chim đậu để ngủ. Một loài, Aerodramus
papuensis gần đây được phát hiện là có sử dụng kiểu định vị này
vào thời gian ban đêm ở bên ngoài hang nơi nó đậu ngủ.
Các loài chim yến phân bố rộng khắp
thế giới trong khu vực nhiệt đới và ôn đới, nhưng các loài chim yến
vùng ôn đới giống như các loià én nhạn là những loài chim di trú và
mùa Đông chúng bay về vùng nhiệt đới.
Nhiều loài chim yến có hình dáng
đặc trưng, đuôi ngắn và chẻ cạn, các cánh dài cụp về phía sau giống
như trăng lưỡi liềm hay boomerang. Kiểu bay đặc trưng bằng hành động
“vụt” đặc biệt rất khác với kiểu bay của én nhạn.
Kích thước các loài chim yến dao động
từ nhỏ như yến lùn ( collocalia troglodytes), chỉ cân nặng 5,4 g/con và
dài 9 cm tới yến đuôi nhọn tía (Hirundapus celebensis), cân nặng 184 g
và dài 25 cm.
Tổ của nhiều loài chim yến được kết
dính trên các bề mặt dốc đứng bằng nước bọt.
3. PHÂN BIỆT CHIM YẾN VỚI CHIM ÉN NHẠN
Chim yến là tập hợp các chim nhỏ có
lông màu đen bóng đến nâu đen hay đen ánh thép và đôi khi có lông màu
nâu sáng.
![]() |
Chim yến nuôi trong nhà |
Cánh
nhọn dài, đuôi ngắn có chẻ cạn hoặc gần như không có chẻ.
Xương cánh tay ngắn, chân ngắn 4 ngón (
3 trước, 1 sau) nên không đi được trên mặt đất chỉ thích hợp bay lượm
cả ngày trong không trung. Mỏ ngắn chỉ thích hợp cho việc bắt mồi
trong không khí.
Khi bay, chim chớp nhẹ cánh liên tục
và không bao giờ đậu trên cành cây và dây điện.
Chim én nhạn cũng có lông màu đen,
kích thước lớn hơn, đuôi chẻ rất sâu, Chúng bay theo kiểu chớp chớp
cánh ngắt quãng và thường đậu trên cành cây, dây điện, đọt tre.
4.THỨC ĂN CỦA CHIM YẾN
Cho đến trước năm 1970, người ta vẫn
chưa biết rõ chim yến ăn gì. Ở Việt Nam , Nhật và Trung Quốc cho là
chim ăn cá, rong rêu, sò…và mửa ra các chất không tiêu hóa được
để làm tổ,người Malaysia cho rằng
chim yến tắm và ăn những sinh vật trong nước biển.
Ở Việt Nam, từ 1982 các nhà khoa
học đã phân tích mồi ăn thu từ miệng chim yến mẹ mớm cho con non là
chim yến mẹ ăn con trùng nhỏ bay trong không trung. Thực hiện mổ kiểm
ngiệm chim yến bắt ở các đảo yến Khánh Hòa xác nhận là xác con trùng
giống với thành phần xác con trùng mà chim mẹ mớm cho chim non ăn
mồi.
Kiểm tra phân chim yến tại các nhà
yến ở An Hòa, Tam Thôn Hiệp-Cần Giờ, TP.Hồ Chí Minh có nhiều xác côn
trùng cánh trong khu vực Cần Giờ như con bù mắc,muỗi,rầy…chưa phân
hủy hết.
Tỷ lệ thành phần
thức ăn thay đổi theo từng tháng, từng năm và thay dổi tỷ lệ của các
nhóm côn trùng bay trong không khí.
![]() |
Ruồi giấm là một trong những thức ăn chính của chim yến |
![]() |
Nuôi tạo ruồi giấm làm thức ăn thêm cho chim yến |
Chim yến kiếm ăn chủ yếu ở độ cao
5-50m,thường 0-50m.
Chim yến kiếm ăn từ 5 giờ sáng và
có thê đến 20 giờ tối mới về. Chim yến kiếm ăn 15 giờ mỗi ngày và
có thể bay xa tới 300km để kiếm mồi.
Chim non ở tổ được mớm cho ăn 3
lần/ngày, mỗi cục mồi nặng 0,6-1 gr gồm 250-300 con trùng nhỏ.
Theo Nguyễn Quang Phách
(1982-1993),thành phần thức ăn của chim yến Việt Nam:
Loại con trùng
|
Chim đực
|
Chim cái
|
Chim non
|
![]() |
![]() |
![]() |
|
Ong kiến
|
56,1 94,0
|
68,8 88,2
|
6,2 100,0
|
Mối Cánh
|
12,7 25,5
|
17,4 5,3
|
0,5 20,0
|
Ruồi,muỗi
|
13,4 20,0
|
0,6 7,0
|
20,5 100,0
|
Bọ Gậy
|
5,6 29,4
|
4,8 35,3
|
50,5 100,0
|
Mọt,Bọ rùa
|
5,1 58,8
|
4,7 64,7
|
2,0 81,5
|
Chuồn chuồn kim
|
5,1 29,4
|
2,1 17,6
|
0,2 40,7
|
Bọ xít nhỏ
|
5,4 47,0
|
2,1 29,4
|
4,8 92,5
|
Bướm đêm
|
0,6 5,5
|
0,2 32,8
|
|
Cánh tơ
|
2,5 11,1
|
||
Cào Cào
|
9,5 11,1
|
5.Khả năng định vị của chim yến
Ở trong hang sâu có hàng vạn chim,
hàng ngàn tổ yến. Ở trong nhà yến không ánh sáng có hàng trăm, hàng
ngàn chim và tổ yến, mỗi tổ cách nhau vài mm.
Chiều tối hàng vạng chim bay về và
chỉ trong vài phút chúng đã tìm đến tổ chui vào, không va chạm vách
đá không va chạm tường nhà, cầu thang và ván ngăn.
Theo Medway và Pye (1977), chim yến
phát ra âm thanh nghe được gọi là âm dội để dò đường. Âm dội có hai
xung liên tiếp, mỗi xung là 1-2 ms sung thứ hai có biên độ cao hơn xung
thứ nhất, khoảng cách giữa các tiếng “cạch, cạch” là 60-178 ms.
Mỗi con chim có đỉnh tần số âm thanh
khác nhau nên khi nhận được âm dội chúng có thể xác định âm dội nào
là của chính mình. Chim phát ra âm dội gặp vật cản sẽ dội lại để
chim nghe và “thấy” được vật cản trước mắt và tránh đi.
Khi bay về nơi trú ở, chim phát ra âm
thanh tìm tổ và vì mỗi tổ có 1 cấu trúc riêng biệt do một đôi chim
tạo ra nên sẽ cho ra âm dội phản hồi đặc trưng và chỉ có chim làm ra
tổ đó mới nhận biết tổ của mình.
Chỉ có chim yến hàng mới phát âm dọi
dò đường, những loài chim yến khác làm tổ nơi có ánh sáng thì xác
định phương hướng bằng mắt.
Âm thanh của chim yến tổ trắng khác
với chim yến tổ đen phát âm thanh dội chỉ gồm có bọn xung điện với
các xung tách biệt nhau khoảng 4-8 xung trong khoảng 20=25 ms.
Chim
yến C. vanicorensis có thể tránh được những vật cản nhỏ có đường
kính trên 3,2 mm.
Chim yến tổ trắng C. fuciphaga tránh
được vật cản có đường kính trên 10 mm nên không có khả năng bắt mồi
trong bóng tối mà chỉ có thể tránh vật cản khi bay trong bóng tối,
ban ngày khi bay chim có thể ăn được những côn trùng bay trong không khí
có kích thước nhỏ dưới 3 mm.
6. Chim yến xây tổ
Tổ
yến hay yến sào là một loại thực phẩm dược phẩm nổi tiếng do chim
yến C.fuciphaga và C. maxima làm nên. Được xem là món cao lương mỹ vị
ở các quốc gia như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam và nhiều quốc gia khác. Tổ yến
được chia làm hai loại:
6.1 Tổ yến hoang trong hang động (wild/Cave
Nest)
Khai thác tổ của các loài chim yến sống
trong các hang động là chim yến C.Fuciphaga và C Maxima. Do tính chất
nguy hiểm của việc lấy tổ yến và một vài diểm chuyên biệt nên loại
tổ yến này có giá trị cao nhất so các loại tổ yến khác.
Tổ yến trong hang động,với những
diều kiện tự nhiên thường có hình dạng giống như những cái chén
trà, thân dày và chân cứng. Chân tổ yến cứng để có thể gắn chặt
vào tường vì các hang động thường có độ ẩm cao.
Tổ yến loại này được tìm thấy ở
Việt Nam, Thái Lan, Malaysia Và Indonesia.
6.2.Tổ yến trong nhà (House Nest)
Tổ chim yến |
6.3 Chim yến xây tổ
Chim yến đã xây tổ hoàn thành và đẻ trứng |
Khi vào mùa sinh sản, những đôi bạn
chim yến chọn cho mình một chỗ thích hợp trên vách hang hay tấm ván để
xây tổ. Vị trí này được giữ cố định trong nhiều năm trong suốt cuộc
đời của đôi chim yến nếu như không có những biến động môi trường sống
hay bạn chim bị chết.
Tổ yến thường do chim đực xây dính
vào thành hang đá hay ván gỗ.
Chim làm tổ về đêm vì ngày đi kiếm
mồi ăn. Tuyến nước bọt phát triển, cơ hàm ép vào tuyến làm nước bọt
tiết ra, chim yến dùng lưỡi đẩy nước bọt ra khỏi miệng kéo thành sợi
và quẹt qua quẹt lại lên vách hang hay ván để định hình.
Khi tiết nước bọt, chim nhắm mắt, lắc
đầu và xù lông thân vài lần rất vất vả. Nước bọt gặp không khí khô
lại sau 2-3 giờ.
Qua nhiều đêm nền tổ được hình thành,
chim đeo lên nền tổ tiếp tục xây. Khi nền tổ đã lớn, chim nằm vào
trong lòng nền tiếp tục quét nước bọt lên mép tổ, sau đó đu hình lên
vách đá hay tấm ván, mép tổ rồi chút đầu xuống quẹt nước bọt vào
lòng tổ tạo 1 lớp xốp như xơ mướp
bao gồm nhiều phiến mỏng được dệt từ nhiều sợi tơ bằng nước bọt
chim yến và bện vào nhau cho đến khi tổ tạm hoàn tất và chim sắp
đẻ.
Trong khi đẻ trứng, chim vẫn tiếp tục
làm tổ có thể cao thêm 1-2 mm.
Chim làm tổ lần đầu phải mất 4 tháng,
làm tổ lần 2 hoặc lần 3 chỉ một tháng.
Một đêm chim làm được khoảng 1 mm mép
tổ với khoảng 0,13-0,15 gr nước bọt tiết ra.
Tổ yến hình dạng như một nữa chiều
dọc của chén uống trà. Tổ chim làm lần đầu nặng 7-15 gr, lần hai
nặng 5-10 gr và nhỏ nhẹ dần ở các lần sau.
Tổ yến thường được chim làm độ dài
gốc tổ xong trước, độ dài mép tổ và độ dày đạt kích thước tối đa
khi chim được 30% số tổ.
Tổ yến có màu trắng, màu hồng và cả
màu đỏ tươi.
Tổ màu hồng hay màu đỏ tùy thuộc môi
trường nơi chim làm tổ, hoàn toàn không phải do chim tạo ra bằng việc
bị xuất huyết máu tan vào nước bọt.
Tổ yến hoang dã ở khánh hòa thường
nhỏ hơn tô yến Bình Định và Đà Nẵng. Sự khác biệt này liên quan đến
kích thước của chim. Chim yến ở Đà Nẵng nặng 14,5 gr lớn hơn chim ở
Khánh Hòa 1,5 gr.
Kích thước tô yến biến dổi hàng năm
tùy thuộc nhiều yếu tố như mùa vụ, lượng mồi ăn.
Bình thường một hang yến hay nhà yến
có khoảng 2.000-3.000 tổ thì mật độ tổ yến là 110-130 mm/tổ, càng ít
tổ thì mật độ làm tổ thưa rộng ra.
Địa Phương
|
D
|
R
|
C
|
Pg
|
Khán Hòa
|
65,9
|
56,2
|
10,8
|
11
|
Bình Định
|
64,0
|
60,9
|
10,0
|
10
|
Đà Nẵng
|
69,0
|
60,0
|
11,0
|
12
|